Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Đào Uyên Minh
ba đường cúc 𠀧塘菊
dt. đc. dịch chữ tam kính cúc 三徑菊. Kính: đường nhỏ. tam kính: đc. Tam kính của Tưởng Hủ. Triệu Kỳ đời Hán trong Tam Phụ Quyết Lục phần Đào danh ghi: “Đời Hán, thứ sử duyện châu là Tưởng Hủ, nhân vì Vương Mãng chuyên quyền, từ quan ẩn cư, mở ba đường nhỏ trong rừng trúc, chỉ giao du với hai người Cầu Trọng và Dương Trọng. Đào Uyên Minh đời Tấn trong bài Quy Khứ Lai Từ có câu: “ba lối hoang vu, tùng cúc vẫn còn” (三徑就荒,松菊猶存 tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn). Mưa thu rưới ba đường cúc, gió xuân đưa một rãnh lan. (Ngôn chí 17.5)‖ (Tự thán 73.5, 107.5).
chống cày 𢶢𦓿
◎ Phiên khác: gióng (PL).
đgt. <Nho> dịch cụm thực trượng 植杖, sách vân 策耘. Luận Ngữ thiên Vi tử có đoạn: “Người ẩn sĩ chống gậy làm cỏ” (隱者荷條丈人植其杖而耘). Đào Uyên Minh trong Quy Khứ Lai Từ có câu thơ: Ngày ngày lén bước tiêu dao, khi ra thực trượng khi vào vân nông (Phạm đình toái ). “chống cày” được coi như là một biểu tượng cho cuộc sống tự trồng trọt (tạc tỉnh canh điền) nuôi thân của các ẩn sĩ. Cày chống tuyết. (Ngôn chí 13.5)‖ Khuở chống một cày. (Mạn thuật 28.1).
lưới trần 䋥塵
dt. dịch chữ trần võng 塵網, ý nói con người sống trên đời luôn bị nhiều trói buộc, giống như con cá bị mắc vào lưới, cho nên những hệ luỵ cuộc đời được gọi là lưới trần. Đông Phương Sóc trong bài Dữ hữu nhân thư có câu: “Chớ để cho lưới trần giàm danh trói gò, sung sướng cười hoài, du chơi khắp thập châu tam đảo.” (不可使塵罔名韁拘鎖,怡然長笑,脱去十洲三島 bất khả sử trần võng danh cương câu toả, di nhiên trường tiếu, thoát khứ thập châu tam đảo). Đào Uyên Minh trong bài Quy viên điền cư có câu: “Rơi nhầm vào lưới trần, thoắt cái ba mươi năm.” (誤落塵網中, 一去三十年 ngộ lạc trần võng trung, nhất khứ tam thập niên). Ngại ở nhân gian lưới trần, thì nằm thôn dã miễn yên thân. (Thuật hứng 60.1)‖ Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân, lưởng thưởng chưa lìa lưới trần. (Mạn thuật 33.2).
lồng chim ao cá 篭𪀄泑𩵜
Thng dịch chữ 籠鳥池魚 lung điểu trì ngư. Phan Nhạc đời Tấn trong bài Thu hứng phú có câu: “Ví như chim lồng cá ao, còn mang lòng suối khe đầm núi.” (譬猶池魚籠鳥,有江湖山藪之思 thí do trì ngư lung điểu, hữu giang hồ sơn tẩu chi tư). Đào Uyên Minh trong bài Quy viên điền cư có câu: “Chim mắc lưới luyến rừng xưa, cá nằm ao mơ vực cũ.” (羈鳥戀舊林,池魚思故淵 ky điểu luyến cựu lâm, trì ngư tư cố uyên). Sau, câu này còn dùng để ví với những tai hoạ không may gặp phải, hoặc ví với cảnh bị ràng buộc mất tự do, như trì ngư chi hoạ 池魚之禍 hay trì ngư chi lự 池魚之慮. Lồng chim ao cá từ làm khách, ngòi nguyệt ngàn mai phụ lệ nhà. (Tự thuật 118.5). ở đây tác giả đang nói đến chuyện bị cầm cố trong chốn quan trường.
ngửa tay 語𪮏
◎ Ss đối ứng của ngửa: ŋa (28 thổ ngữ Mường) [NV Tài 2005: 250].
đgt. khng. Đi khất thực, ăn xin. Đói khó thì làm việc ngửa tay, chớ làm sự lỗi, quỷ thần hay. (Bảo kính 171.1). Đào Uyên Minh trong bài Khất thực viết: “cái đói xua ta đi, chẳng biết đi đâu nữa! đi mãi đến xóm này, ngượng miệng đành gõ cửa…” (饑來驅我去,不知竟何之!行行至斯里,叩門拙言辭 cơ lai khu ngã khứ, bất tri cánh hà chi! hành hành chí tư lí, khấu môn chuyết ngôn từ.).
nhiễu 繞
◎ Nôm: 遶
đgt. vây quanh. Đào Uyên Minh trong bài Độc Sơn Hải Kinh có câu: “Đầu hè cỏ mau lớn, quanh nhà cây lên rậm.” (孟夏草木長, 繞屋樹扶疏 mạnh hạ thảo mộc trưởng, nhiễu ốc thụ phù sơ). Có nước nhiễu song, non nhiễu cửa, còn thơ đầy túi, rượu đầy bầu. (Tự thuật 121.3).
Nho 儒
dt. nho gia, nho giáo. (Mạn thuật 27.5)‖ (Bảo kính 150.1), rừng Nho: dịch chữ Nho lâm 儒林Trí qua mười mới khá rằng nên, ỷ lấy nho, hầu đấng hiền. (Bảo kính 183.2). Đào Uyên Minh trong bài Vinh mộc 榮木 có câu: “sao có thể dựa vào cái chẳng phải là đạo? sao có thể dốc sức vào những điều không phải là thiện?” (匪道曷依,匪善奚敦 phỉ đạo hạt ỷ, phỉ thiện hề đôn).
tùng cúc 松菊
dt. cây tùng và cây cúc, hai cây biểu tượng cho khí tiết kẻ sĩ. Giang san bát ngát kìa quê cũ, tùng cúc bù trì ấy của hằng. (Tự thán 77.6), dịch câu Tùng cúc do tồn của Đào Uyên Minh.
Tưởng Hủ 蔣詡
dt. (69 - 17 tcn), tự nguyên khanh 元卿, người đỗ lăng (nay Tây An tỉnh Thiểm Tây), làm thứ sử duyện châu đời Đông Hán, tính liêm khiết, trung trực. Sau vì bất mãn với sự chuyên quyền của Vương Mãng 王莽 mà từ quan về ở ẩn ở quê nhà, đóng cửa không ra nữa, lại đặt tên nhà là Tam Kính Đường 三徑堂, Tam Hiền Đường 三賢堂, Dương Giác Đường 羊角堂 (theo Tông từ đường hiệu). Người đời có câu ngạn ngữ rằng: “Nước sở có hai ông họ củng, nhưng vẫn chưa bằng tưởng công ở đỗ lăng.” (楚國二龔,不如杜陵蔣翁 sở quốc nhị củng, bất như đỗ lăng tưởng công). Sách Tam Phụ Quyết Lục ghi: “Tưởng Hủ về quê, cỏ gai tắc cửa. Trước cửa nhà có ba con đường nhỏ, chỉ dành cho các dật sĩ như bọn Cầu Trọng, Dương Trọng đến chơi.” (蔣詡歸鄉里,荆棘塞門。舍中有三徑,不出,惟求仲、羊仲從之游). Đời sau dùng chữ tam kính (ba đường) để trỏ nơi ở của ẩn sĩ. Đào Uyên Minh trong Quy Khứ Lai Từ có câu: “Ba lối đã hoang, tùng cúc vẫn còn.” (三徑就荒,松菊猶存 tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn). Trúc Tưởng Hủ nên thêm tiết cứng, Mai Lâm Bô đâm được câu thần. (Tự thán 81.3). x. ba đường cúc.
tấp 㙮
AHV: đáp. Phiên khác:, khép (TVG, BVN), không đúng mặt chữ Nôm; đắp (ĐDA, MQL, PL). Nay đề xuất.
đgt. rấp cành gỗ mà đóng cửa, “tấp: rào rấp. lấy vật mà tấp: lấy vật mà ngăn rấp. tấp gai: lấy gai gốc mà rấp chỗ nào. Tấp cửa ngõ: rấp cửa ngõ” [Paulus của 1895 t2: 346], do ngày xưa cửa cũng khá xuềnh xoàng, cửa của ẩn sĩ, nho sinh thường là cửa sài (柴門). Đào Uyên Minh có câu: “đóng cửa gai hát ngạo, ta là dân ruộng cầy” (長吟掩柴門,聊為隴畝民 trường ngâm yểm sài môn, liêu vi lũng mẫu dân). Buồng văn tấp cửa lọn ngày thu, đèn sách nhàn làm song viết nho. (Thuật hứng 58.1). rấp, dấp. Cửa nhà nàng dấp chín lần gai, anh vô chẳng được anh đứng ngoài trời mưa. cd
đông ly 東籬
dt. hàng rào phía đông. Danh thơm thượng uyển còn phen kịp; bạn cũ đông ly ắt khá [nhường]. (Cúc 217.6)‖ dịch câu 采菊東籬下,悠然見南山 thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến nam sơn (Đào Uyên Minh- ẩm tửu). Bạn cũ đông ly: tức hoa cúc.
ảo hoá 幻化
tt. AHVhuyễn hoá, nghĩa gốc là “sự biến đổi”, trong đó huyễn = hoá (từ kép đẳng lập), như: “幻化也” (Quảng Vận). Liệt Tử phần chu mục vương ghi: “Những việc mà đến lúc cùng thì sẽ biến đổi, nhân theo hình mà thay đổi, đó gọi là hoá, gọi là ảo…… nên biết rằng việc ảo hoá không khác gì với việc sống chết.” (窮數達變,因形移易者,謂之化,謂之幻.…知幻化之不異生死也). Sau được dùng để dịch thuật nhữ māyā-upamatā của Phật giáo, trỏ vạn vật không có thực tính. Đào Uyên Minh trong bài Quy viên điền cư có câu: “đời người tựa ảo hoá, thảy đều về hư vô” (人生似幻化,終當歸空無 nhân sinh tự ảo hoá, chung đương quy không vô). Toàn Đường Thi (q.806) bài Hàn san thi có câu: “phù sinh ảo hoá như đèn lụi, thân vùi dưới đất ấy hữu - vô” (浮生幻化如燈燼,塚內埋身是有無 phù sinh ảo hoá như đăng tận, trủng nội mai thân thị hữu vô). Người ảo hoá khoe thân ảo hoá, khuở chiêm bao thốt sự chiêm bao. (Thuật hứng 47.3). ai ai sá cóc: bằng huyễn chiêm bao; xẩy tỉnh giấc hoè, châu rơi lã chã. Cóc hay thân huyễn, chẳng khác phù vân; vạn sự giai không, tựa dường bọt bã. [Trần Nhân Tông - Đắc Thú lâm tuyền 31a]. kinh kim cương có câu: “tất thảy phép hữu vi, như bóng bọt mộng ảo” (一切有爲法,如夢幻泡影 nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh).